CÓ 3 NỀN VĂN HOÁ LỚN HIỆN NAY
TỰA VÀO 3 MỆNH ĐỀ LỚN SAU
1-NỀN VĂN HOÁ “KINH THÁNH” MỌI MUÔN VẬT
ĐỀU DO THƯỢNG ĐẾ TRỜI ĐẤT SINH RA
2- NỀN VĂN HOÁ “KINH DỊCH” TẤT CẢ MỌI THỨ
ĐỀU DO ÂM DƯƠNG MÀ HÌNH THÀNH
3- NỀN VĂN HOÁ “DARWIN . MARK . LENIN” TẤT CẢ
MỌI THỨ,MỌI SỰ VIỆC PHẢI CÓ THỜI GIAN TIẾN
HOÁ MÀ HÌNH THÀNH
HÌNH ẢN
GIA PHẢ HỌ VÕ
Ở BÀ GIÃ -Ấ́P 1
XÃ PHƯỚC VĨNH AN
HUYỆN CỦ CHI
TPHCM
THỰC HIỆN TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VÀ THỰC HÀNH
GIA PHẢ TPHCM - SỐ 4 BÀ HUYỆN THANH QUAN Q.3 TPHCM
GIA PHẢ HỌ VÕ
Ở xứ Bà Giả - ấp 1 xã Phước Vĩnh An, huyện Củ Chi, Tp.HCM
- Thực hiện từ cuối mùa Đông năm Nhâm Thân 1992
- Đây là bản đánh máy lại lần thứ 3, khi đã có máy vi tính do Võ Thị Tâm trình bày năm 1997.
- Và là bộ gia phả đầu tiên có trước nhứt khi nhóm gia phả chưa thành lập và đánh máy theo kiểu “mổ cò” trên giấy pelure, mỗi lần đánh chỉ được 5 bản.
- Bản in lần 3 nầy đã lượt bỏ một số bài viết như: các lần đi tìm dòng họ ở Tân Mỹ - Đức Hòa, các lần đi tìm khu di tích “Vòng Thành”của ông Võ Văn Nhâm ở Long Nguyên.
- Do là mới tập sự lần đầu, nên việc dựng phả chịu nhiều ảnh hưởng của bộ Phả “Mộ Trạch Vũ tộc thế hệ sự tích” và theo “gia phả khảo luận và thực hành” của Dã Lan Nguyễn Đức Dụ
- Nhược điểm là viết theo lối cho mình, dung danh xưng “tôi” để gọi ông nội tôi, cha mẹ, chú tôi, bản in lần ba đã khắc phục và điểm yếu đáng kể là viết rõ hơn về chi trực hệ của mình, tuy nội dung thể hiện đầy đủ các chi trong đại tộc
- Phần phụ khảo viết khá dài về lịch sử địa lý nhân văn của xả
- Phần ngọai phả ghi về việc cúng giổ, miếu thờ, các đồng mả, việc đặt tên người trong tộc, những điều còn chưa rõ, bản đồ các đồng mả, một số hình ảnh, thay lời kết, tất cả là 168 trang khổ A4.
- Lời dẩn nhập (lời mở đầu) dài 5 trang có đoạn được nhà báo Nguyễn Thanh Bền chấp bút và Văn Công Chí, Võ Văn Sổ thực hiện.
LỜI DẪN NHẬP
Khi muốn dạy dỗ con cháu, ông bà ta thường hay mở đầu bằng câu: “mộc bổn, thủy nguyên, nhơn sanh hổ Tổ”, ý là để nhắc nhở gốc gác dòng họ, truyền thống ông cha để đời sau biết mà đoàn kết thương yêu người cùng huyết thống, đồng thới bảo vệ truyền thống tốt đẹp đó, không làm điều gì trái quấy để phương hại đến danh dự gia tộc, bởi “giấy rách phải giữ lấy lề - nát vỏ cũng còn bờ tre”
Đó là cội nguồn sâu xa, vững chắc của tình yêu Tổ quốc
Khi đã yên giặc, tạm ổn cái ăn cái mặc thì việc tiếp theo của người con trung hiếu là là biết rõ nguồn cội Tổ tiên ông bà, có bao nhiêu người, quan hệ thế thứ, tên tuổi, mồ mả giổ chạp, mà mỗi lần nhắc đến ai cũng nhói lòng và như thấy mình có lỗi.
Trộm nghĩ: trời đất sinh muôn vật trong đó có con người, hể là con người thì phải có Tổ tiên, kế đó là ông bà, cha mẹ rồi mới đến mình, đã là con người thì phải xem nguồn gốc là trọng.
Bởi vậy, là con người thì phải nhớ đến công đức, giổ chạp, sự thân sơ trong họ hàng, hiểu được chuyện xưa cộng với cái thông minh sang suốt của con cháu thì sự “chí thiện” của thánh nhơn mới có thể làm căn bản để thực hiện chữ Hiếu chữ Đức sau nầy.
Vung bồi cái gốc của Tổ tiên để gây hạnh phúc cho tương lai như vậy ta mới hân hoan mà nhủ rằng: “Nghành ngọn có tốt tươi là do gốc rể được vững bền, đó là ta thấu hiểu ý của thánh hiền, hiểu lẽ âm dương thăng giáng, thạnh suy của vạn vật để mà thể hiện nghèo khó biết giúp đỡ nhau, giàu sang biết gắng bó nhau, liên tục từ đời nầy sang đời khác, chứ không phải một sớm một chiều mà có được.
Nước có sử để xét người trung thần nghĩa sỉ, tặc đảng gian nhân, nhà có phả để ghi người hiếu tử hiền tôn, trung trinh, tiết liệt, kẻ ác tử, ngoa ngôn, gian phu nghiệt phụ.
Vậy nên viết gia phả là để ghi chép công đức, ngày giổ chạp, phần mộ để con cháu nhớ kẻo ngày một suy vi, tình nghĩa sa sút, vàng thau ngọc đá lẩn lộn, giổ chạp qua loa, mả mồ xiêu lạc thì làm sao an tâm cho được.
Mấy đứa chúng tôi thuộc lớp hậu sanh vẫn còn mang nguyên vẹn dòng máu họ Võ từ lâu vẫn mang nổi u hoài, mong có cơ hội để làm gì “báo hiếu Tổ tông” nhu cầu nầy mỗi ngày mỗi bức xúc vì lớp chúng tôi cũng đã sắp già, mà lớp chú bác thì mỗi năm mỗi vãng đi một số đáng lo ngại.
Nay, việc nầy may là lớp chúng tôi cũng còn đông đảo được ông bà chú bác cao niên tán đồng, cả họ tộc hưởng ứng, mỗi người đều tham gia tìm hiểu, cung cấp tài liệu hiện vật, nên cơ bản quyển Gia phả họ Võ đã hoàn thành.
Việc sắp xếp bộ gia phả nầy, mọi người đều nhất trí ghi ông Tổ cao nhất là ông Võ Văn Hai là đời I, mộ ông bà ở nơi gọi là Đồng mã sau (theo bản đồ), chép theo phương pháp pháp đọc cho từng chi.
Một số trở ngại vấp phải:
- Qua hai cuộc kháng chiến, xóm Bà Giả bị sang bằng, dòng họ tứ tán, sau hoà bình gặp lại thì kẻ còn người mất, việc nhớ việc quên,chứng tích thư tịch đều mất mát, thất lạc.
- Lớp thế hệ cao niên đời 4, 5 không còn mấy người, nếu còn cũng không nhớ đầy đủ mạch lạc, rất đáng tiếc.
- Lớp trẻ sau 30 tháng 4 năm 1975 chân uớt chân ráo trở về, còn trăm nỗi lo toan, xây lại nhà cửa, dọn dẹp bom mìn, lo ăn lo mặc nên cũng chưa đủ thời gian đóng góp cho gia phả.
- Việc bế tắc đầu tiên là quá trình lập nghiệp của ông Tổ đời I, việc hiểu biết chưa rõ ràng qua lời kể của nhiều người với những điềucần phải làm rõ như:
- Người con trưởng Võ Văn Nhâm đứng lên chống Pháp xâm lược đã xây dựng căn cứ “Vòng Thành” ở Bưng Rê, lập xưởng vũ khí ờ Tha La Núi Cậu, rồi sau đó thất bại bị Pháp bắt đưa về Thủ Dầu Một xử tử thả trôi sông mà vào tháng 5/1992 các người 2 Mảnh, 5 Đường, 2 Sổ, 7 Câu, 6 Vỉnh đã “điền dã” tận nơi, mắt thấy tai nghe, quả nhiên “tin bất hư truyền”, phế tích Vòng Thành hiện ra trước mắt, là nơi đóng hành dinh của ông hai Bụng vào khoảng sau những năm 1856; là di tích có thật thuộc xã Long Hòa bên nguồn Thị Tính.
- Người em của Tổ phụ võ Văn Hai là Võ Văn Sót, cùng chuyến vào nam, đã 1 lần nữa đi về vùng Tân Mỹ - Đức Hòa là do nguyên nhân nào?
Sau hết đây là lòng mong muốn của bộ gia phả:
- Đối với người trong họ:
Để biết rằng ông khởi Tổ đến xóm Bà Giả nầy đã hơn 200 năm, trong bối cảnh xã hội phong kiến sắp suy tàn, nền kinh tế nông nghiệp mang tính quảng canh và cổ điển, nhưng đã là người tiền phong khai hoang, lập ấp, mở lộ xây Đình, sống trong nền tảng của nho giáo Khổng Mạnh, giáo dục con cái giử trọn đạo làm người cho nên ngày nay dư huệ ấy mà con cháu sống ngẩng cao đầu đó là phúc ấm của Tổ tiên, sự thừa kế tốt đẹp từ tiền nhân.
- Đối với đồng hương khác họ
Trong xu thế Nam tiến, cả một cộng đồng dân cư người Việt, vì nhiều nguyên nhân mà đi tìm miền đất hứa, họ có cùng một ý chí, đồng cam cộng khổ, đốt rẩy phá rừng tìm chốn an cư, xa nơi chôn nhao cắt rốn - Rồi ngày tháng dần qua, do giao lưu xã hội, do qua hệ hôn nhơn, đến thời kỳ văn minh hiện đại, các họ xích lại gần nhau hơn, chỉ vẻ học tập lẫn nhau những kinh nghiệm thủ đắc về kinh tế, văn hóa…..để làm cho cộng đồng xã hội ngày càng tiến bộ theo trào lưu, đó là mong mỏi của bộ gia phả nầy.
Than ôi! Thương hải tang điền, họ ta hiện diện tại đây khoảng 200 năm, trải qua thời phong kiến, thuộc địa, rồi chiến tranh giải phóng dân tộc. Cuối cùng là đất nước giải phóng và tiến lên theo trào lưu mới vẫn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc, thì việc làm gia phả nầy cũng nên lắm vậy thay.
Cuối mùa Đông năm Nhâm Thân 1992
PHẢ KÝ
Họ Võ chúng ta, từ lâu cư ngụ tại xứ Bà Giả (nay là ấp 1, ấp 2 xã Phước Vĩnh An, huyện Củ Chi Tp.HCM)
Qua bản tộc hệ đã bị thất lạc từ năm 1924 mà các vị cao niên kể lại, qua tìm hiểu ở các chi hệ hiện nay, qua nhiều lần sưu tầm, nghiên cứu địa hình, địa vật, mồ mã và qua các thư tịch cổ, thì Tổ quán họ Võ ở xứ Thuận An thuộc tỉnh Thừa Thiên Huế, Lược sử Tổ tiên có những nét chính như sau:
Vào khoảng cuối thế kỷ 18 hoặc đầu thế kỷ 19 có người họ Võ ở xứ Thuận An, người anh là Võ Văn Hai, em gái là Võ Thị Phụng, em út là Võ Văn Sót, cùng 1 người cháu gọi ông Hai là chú đã hòa nhập theo trào lưu Nam Tiến đương thời, giương buồm theo đường biển, vượt qua bao gian nan vào đất Gia Định sinh sống. Không biết các cụ vì lý do nào? chạy giặc, lánh nạn, tìm nơi mưu sinh? hay vì lý do chánh trị hoặc theo chủ trương của triều đình mà phải thực hiện 1 cuộc hải trình lâu ngày, đến nay vẫn chưa có điều kiện tìm được cội nguồn ông thủy Tổ nơi đất Thuận An xưa, chỉ biết ông Võ Văn Hai là vị sơ Tiên Tổ (hay khởi Tổ) của họ ta bây giờ.
Sau khi đến đất Gia Định xưa, nơi “đất lành” được chọn là xứ Bà Giả nầy
Thuở ấy, từ Hóc Môn lên Củ Chi đến Tây Ninh, hai bên con đường Sứ, còn gọi là Thiên Lý Cù (nay là quốc lộ 22) toàn là những khu rừng nối tiếp. Xứ Bà Giả hoang vu chỉ có vài nhóm nhà lác đác trong những cánh rừng rậm trên vùng đất gò phù sa cổ.
Họ Võ chúng ta là một trong vài họ đầu tiên đến cư ngụ khai phá, tạo thành thôn xóm, ruộng vườn như ngày nay
Các tên nêu trên là các vị Tổ phụ mẫu đầu tiên, được gọi là thế hệ đầu tiên, tức là đời thứ nhất, có công lưu truyền dòng dõi trong suốt 200 năm đến nay đã được 8, 9 đời.
Các sử liệu về dòng họ ở Thuận An, nếu tìm được sẽ bổ sung sau.
Đôi Hàng Viết Thêm Sau 21 Năm Có Bộ Gia Phả Họ Võ
Là người chấp bút viết gia phả cho họ tộc cùa mình và cũng là bộ gia phả đầu tiên của nhóm người sau nầy đã hình thành TrungTâm Nghiên Cứu và Thực Hành Gia Phả xin nói thêm về bộ phả nầy
Qua hơn 20 năm dài, trong họ tất nhiên đã sản sinh thêm nhiều người, cũng không ít người đã quá vãng, quang cảnh làng thôn có nhiều thay đổi nhưng chưa một lần cập nhựt, bổ sung đó là thiếu sót lớn.
Nay nhìn lại cách viết gia phả bổng thấy xuất hiện những điều bất cập, nhưng xin cứ để nguyên để có dịp so sánh, như là lời dẫn nhập viết khá dài, phần phả ký lại rất ngắn, do những việc đáng kể đã bị đưa vào hành trạng của mỗi người; cũng có thể nên viết lại.
Có thể kể những việc quan trong đã làm sau năm 1992
- Vận động thành lập Hội Đồng Gia Tộc họ Võ để điều hành công việc trong tộc.
- Hoạt động khuyến học trong con cháu nội ngoại họ Võ.
- Xây thêm tiền sảnh miếu thờ họ Võ và Tổ chức trang trọng việc cúng giổ hàng năm.
- Quy tụ lại được phái ông Tổ thúc Võ Văn Sót ở Tân Mỹ - Đức Hòa và giúp cho phái nầy dựng gia phả cho họ, chủ biên là chú Lê (Võ) Văn Thạnh.
- Quy tụ chi ông Võ Văn Nhâm ở Long Nguyên, xin đăng ký chủ quyền khu đất Vòng Thành, xin được tỉnh Bình Dương công nhận di tích và tiếp sức với ông Võ Văn Cội hoàn thành gia phả chi ông Nhâm.
- Giúp ông Năm Đu lập riêng bộ gia phả cho chi ông Võ Văn Sáng
- Sau ngày hoàn thành bộ gia phả đã tìm lại được bản tông chi đã nói là viết năm 1924 bị thất lạc. Thực ra bản tông chi nầy do ông Mười Võ Văn Cự đời III họ Võ (con ông Bảy Võ Văn Cơ) viết trước đó, năm 1924 chỉ là năm chép lại bởi chú chín Võ Văn Tín đời 5 chi ông Ngoan, trong đó liệt kê tên họ từ ông Tổ đời I đến các người đời IV họ Võ.
- Có ghi thêm về cánh họ Nguyễn của bà Tổ mẫu Nguyễn Thị Điền
- Họ “Võ Tùng” có người từ miệt Hóc Môn chạy về đây trú ngụ được tiếp nhận cho lấy họ Võ, làm Dưởng tử, được cho đất để ở và sản xuất, lớp sau nầy là ông Lẻ, ông Tẻ, ông Sa, nay không có liên lạc.
- Ghi tên một số người họ Võ như ông Nhị, ông Xợn, ông Giám, đó là cơ sở hiếm hoi để dựng bộ gia phả họ Võ của Võ Văn Một, mới biết ông Tổ của phái nầy cùng vào Nam một lượt và cùng trong thân tộc.
- Trong gia phả 1992, thực tế chỉ viết về chi trực hệ là ông Võ Văn Ngoan, còn các vị bàng chi chỉ ghi sơ lược, nhưng sau đó đã lập từng bản phả đồ cho từng chi đã in hifflex và trưng bày ở nhà Từ Đường
- Về bên ông Võ Văn Hai theo trước đây viết là Hai nhưng khi lục lại nguyên văn địa bạ Minh Mạng thấy viết là Khẩu = Thai tức là Hay, mà trước đây viết lầm là Thai = Nhị thành ra Hai là không đúng (nhưng chữ Hay xin đừng viết ra và phát âm là Hây). Bản trích lục sổ địa bạ nầy tìm được bản gốc ở Cục lưu trữ, sau bản dịch của ông Nguyễn Đình Đầu, đã được phiên âm, dịch và trưng bày ở nhà Từ Đường.
- Sau khi hoàn thành bộ gia phả họ Võ cho Võ Văn Một, hai bên đã nhận nhau đưa ông Tổ đời I là ông Võ Văn Dưa người cùng vào Nam một lượt vào thờ chung, thì cùng bắt tay xây dựng nhà Từ Đường được khang trang hơn như ta thấy hiện nay.
- Một hành động sau cùng là vận động và di dời phần mộ ông bà Tổ Võ Văn Hay và Nguyễn Thị Điền về nơi an táng mới thích hợp hơn và bề thế hơn.
Đó là những việc khá quan trọng mà gia phả chưa cập nhật được, nay ghi thêm vào đây để người đọc dễ hình dung
Võ Văn Sổ
PHẢ HỆ
ĐỜI THỨ I
- Ông VÕ VĂN HAI Bà NGUYỄN THỊ ĐIỀN
Giổ: 13/3 âm lịch Giổ: 13/1 âm lịch
Mộ ở đồng mả sau, được trùng tu năm 1991
(Ở trên đã đính chánh là VÕ VĂN HAY, mộ nay đã cải táng)
Người đầu tiên họ Võ đến định cư tại trung tâm xóm Bà Giả khai hoang mở đất, bà Tổ mẫu tên Nguyễn Thị Điền chị của ông Nguyễn Văn Hương có bà mẹ cùng vào Nam một lượt định cư ở bên Xóm Đồng cách 1 eo ruộng gò, không rõ đã cưới nhau từ trước hay sau khi vào đây? Họ Nguyễn nầy nay còn nhiều người ở ấp 2 Phước Vĩnh An, không biết năm sanh năm mất của ông bà.
Sách nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn đã ghi năm Minh Mạng thứ 17 (1836) khâm sai Trương Đăng Quế vào Nam đo đạc lập sổ địa bạ đã ghi ông Võ Văn Hay đã được phân canh 2 mẫu 8 sào 12 thước ruộng và ông Hay đồng thời là thôn trưởng thôn Phước An (Yên) danh xưng thời đó, đó là điều xác nhận việc mở làng và quyền canh tác ở địa phương, việc suy nghĩ kế tiếp là hình thành tín ngưỡng thờ cúng Đình làng.
Không còn nhớ năm sanh, năm mất của ông bà, chỉ nhớ được ngày giổ, được thực hiện tại nhà ông năm Khẳng cho đến khi xây miếu thờ, mộ ông bà được táng ở Đồng mả sau, bị hủy hoại trong chiến tranh, được trùng tu vào tháng chạp năm Tân Mùi 1991, ông bà sanh các con
Thứ 2 Võ Văn Nhâm
Thứ 4 Võ Văn Ngùy
Thứ 6 Võ Thị Trung
Thứ 8 Võ thị Giàu
Thứ 10 Võ Văn Đó
Thứ 3 Võ Văn Ngoan
Thứ 5 Võ Thị Thảo
Thứ 7 Võ Văn Cơ
Thứ 9 Võ Thị Đây
- VÕ THỊ PHỤNG
Truyền thuyết đều nói bà Phụng là em ruột của ông Hai (Hay) nhưng không ai còn biết dấu vết, hành trạng của bà. (Riêng người viết sau khi đọc sổ địa bạ thấy có ghi tên ông Dịch mục thôn Phước An là Võ Văn Phụng nên có ý ngờ!).
- Võ Văn Sót Bà Phạm Thị Hiệp quê Thái Mỹ
Giổ 7/7 âm lịch Giổ 7/11 âm lịch
Mộ ở đồng mả xóm Bàu Trâu
Được trong họ tộc cho biết, ông Tổ thúc Võ Văn Sót đã làm lần thiên cư nữa về vùng Bàu Trâu, An Ninh cư ngụ ở đó, trước chiến tranh còn tới lui nay thì bặt tin, chúng tôi nôn nóng tổ chức đi tìm.
Lần thứ nhứt:
Ngày 10/5/1992, chúng tôi có nguồn tin mơ hồ, tiếp xúc với người họ Võ đang sống ở thành phố để về xã An Ninh - Đức Hòa nay chia hai là An Ninh Đông và An Ninh Tây, tên dân gian là Bàu Trâu trên; gặp cánh họ Võ ở An Ninh Đông , có ông Tổ cao nhất là Võ Văn Nghiêm, sanh ra ông Vui, ông Vẻ; cánh ông Vẻ ở tại đây, còn ông Võ Văn Vui đi về Nhuận Đức (ấp Bàu Chứa) sanh ra ông Chỉnh, ông Bình, khẩn đất trồng cao su và giàu lên. Ông Bình đắc cử Cai Tổng Bình Thạnh Trung và sanh ra Võ Văn Mộc, tiếp tục làm Cai Tổng và có con là Võ Minh Bổn đi tập kết, sau 1975 trở về là Phó Giám Đốc Công Ty Điện lực II miền Nam. Chúng tôi được tiếp xúc với bà Võ Thị Liễm 70 tuổi người cao niên còn sống
Gặp một cánh họ Võ nữa ở An Ninh Tây bên bờ sông Vàm Cỏ Đông, thấy họ có tên những nguời anh em đời I là Vượn-Hú-Chim-Kêu-Ngoéo-Ngoắt-Cò
Tuy mọi người tiếp đón nồng hậu và mừng rỡ với người đồng tộc nhưng chúng tôi ra về với niềm thất vọng
Lần đi điền dã thứ hai:
Ngày 24/7/1992 với thành phần như lần trước, chúng tôi đến vùng Bàu Trâu dưới, tức xóm Rừng Muỗi ấp Chánh xã Tân Mỹ với nguồn vốn lận lưng là tìm cánh họ ông Cả Trỉ ở vùng nầy.
Trên tỉnh lộ 9 nối Mỹ Khánh với Đức Hòa, còn đang lúng túng thì gặp một ông già đi xe đạp trong tình trạng đang say rượu, định đi Hậu Nghĩa để mua sắm gì đó, chúng tôi đón ông lại hỏi thăm sau khi lễ phép trình bày mục đích, chúng tôi là con cháu họ Võ ở xóm Bà Giả, được biết rằng thuở xưa có người đã đi về đây, việc liên lạc nhau vẫn còn thực hiện cho đến 1945 bởi ở Bà Giả có các ông út Lóng, ông năm Khẳng mà ở trên nầy là ông Cả Trỉ…..
Ông già mà chúng tôi gặp là ông út Lê Văn Thiệp (con ông Cả Trỉ) biết là đã trúng điểm, tỉnh hẳn cả rượu, nhưng chưa vội nói lý lịch của mình mà hỏi: “mấy ông đi đây có mấy người? chúng tôi đáp có sáu! Ông nói: một mình tôi không chống nổi sáu, xin mời vào nhà có thêm người mới dám nói với mấy ông”, rồi ông gởi xe đạp nơi nhà ai đó, lên xe chúng tôi để trở về nhà cách đó 500 thước và nói: tôi không đi chợ nữa vì ở nhà gặp 6 người như được 6 lượng vàng nếu đi Hậu Nghĩa được 10 lượng cũng bỏ.
Vào nhà, ông Út Thiệp mời thêm 3 ông nữa là ông út Dồn, ông út Bổ, ông mười Sai cùng ngồi lại (các ông nầy thuộc đời 4 và là anh em chú bác với nhau) hàn huyên chuyện họ hàng, mới biết ra các ông là hậu duệ của Tổ Thúc Võ Văn Sót.
Để chắc ý, với tâm trạng hân hoan “Tầm tông vấn Tổ” chúng tôi xin được đi viếng mộ ông bà Tổ Thúc, đến nơi thấy được tên tuổi ông bà ở mộ bia và được liệt kê các vị đời 2 cho đến hiện tại một cách có hệ thống, đến đây thì không còn nghi ngờ gì nữa, nhờ linh thiêng của dòng họ, con cháu 2 ngành lại tìm gặp được nhau.
Ngạn ngữ có câu: Muốn là được, tìm sẽ thấy, thế là toại nguyện, ngày giổ hội 26 tháng 7 âm lịch năm nầy, lần đầu tiên Bà Giả đã tưng bừng đón tiếp đông đảo họ tộc Tân Mỹ về dự, họ đến tận mộ ông bà Võ Văn Hay để chiêm bái rồi trở về nhà từ đường làm lễ trân trọng và biết bao câu chuyện được tỏ bày-biết rằng:
Tổ thúc ở với anh chị tại Bà Giả một thời gian, đến độ trưởng thành, ông lại một mình ra đi về phía tây, có thể giữa đường gặp người họ Phạm ở Mỹ Khánh (Thái Mỹ sau nầy) kết thành phu phụ rồi đến định cư nơi xóm Rừng Muỗi (ấp Chánh xã Tân Mỹ) lần lượt 9 người con ra đời, rồi bí mật tham gia nghĩa quân kháng Pháp nhưng cuối cùng thua trận, các người con phải đổi thành họ Lê để dấu tông tích, chỉ tồn tại họ Võ nơi ngành trưởng là ngành ông Võ Văn Lượm, nhưng có lời nguyền “sống Lê chết Võ”.
Các con là:
Thứ 2: Võ Văn Lượm
Thứ 4: Võ Văn Được sinh 1836
Thứ 6: Võ Thị Hưởng
Thứ 8: Võ Thị Cậy
Thứ 10: Võ Thị Dể
Thứ 3: Võ Văn Đặng
Thứ 5: Võ Văn Bình
Thứ 7; Võ Văn Nhờ chết nhỏ
Thứ 9: Vô Danh chết nhỏ
Những năm tiếp theo, hai bên đều Tổ chức đến với nhau trong ngày giổ họ, và phía Tân Mỹ cũng đã lập xong gia phả phái mình do 2 chú Lê Văn Sạch và Lê Văn Thạnh chấp bút.
Ghi lại chuyện vui:
Chú ba Lê Văn Xây ở Tân Mỹ và chú út Võ Văn Bông (Bà Giả) đều là dân ngành xe buýt lộ trình Thủ Đức-Sài Gòn sắp choảng nhau vì quyền lợi nhưng hỏi nhau biết quê hương là Bà Giả thì họ thôi không sinh sự, tuy chưa biết gì về liên hệ họ hàng.
Chuyện thứ 2: Trong ngày Giổ tộc, Võ Ngọc Bé và mười Hoàng (chồng cô mười Lê Thị Định) vốn là người cùng ngành quen nhau nay lại ngạc nhiên khi gặp nhau, mời biết là người trong thân tộc.
ĐỜI THỨ II
+ Về ông Võ Văn Sáng
Ở trên nói ngoài 3 anh em Võ Văn Hay, Võ Thị Phụng, Võ Văn Sót còn có người cháu gọi ông Hay bằng chú cùng đi, đó là ông Sáng, đương nhiên, ông là vai anh của các người con ông Hay, cho nên trong gia phả xếp ông Sáng là Chi Trưởng. (Đã có bộ gia phả riêng, ở đây không chép)
Các con ông Võ Văn Hay và bà Nguyễn Thị Điền
+ Thứ hai: Ông VÕ VĂN NHÂM + không biết tên bà
Không biết năm sanh, căn cứ vào năm sanh người em kế Võ Văn Ngoan là Mậu Dần 1818, thì ông phải trước đó vài năm, đang khoảng cuối đời Gia Long, ông hy sinh trong thời chống Pháp tức là sau khoảng 1867 Pháp chiếm 3 tỉnh Miền Đông (ước 1815-1867) trên 50 tuổi.
Căn cứ “Vòng Thành” ở Long Nguyên cho ta có ý nghỉ là được lập lên nhiều năm để từ đây xuất quân liên kết cùng Trương Quyền, Đặng Văn Duy, Đặng Văn Doi để tấn công giặc, chứ không phải khi thua trận mới chạy về đây lập căn cứ phòng thủ, nhưng cuối cùng bị phản bội nên ông bị sa vào tay giặc tại đây, chúng đưa về Thủ Dầu Một giết chết, quăng xác xuống sông Sài Gòn, được 2 người em Võ Văn Ngùy, Võ Văn Cơ lén vớt xác đem về an táng ở đồng mã Xóm Bến (được tôn tạo sau năm 1975).
Các con là:
Thứ hai: Võ Thị Liễu gả chồng về Tân Thạnh Tây là ông Đặng Văn Lắm
Thứ ba: Võ Văn Bang ông và con cháu ở Hố Bò Phú Mỹ Hưng
Thứ tư: Võ Văn Kề
Thứ năm: Võ Thị Nho
Thứ sáu: Võ Văn Tàu
Thứ bảy: Võ Văn Lái
Thứ tám: Võ Văn Hải
Thứ chín: Võ Văn Thàng
Người con gái đầu được gả về Tân Thạnh Tây là do ông nội Võ Văn Hay nuôi từ nhỏ, trong khi các người con khác đều không có ai ở quê nhà mà đều ở vùng Bưng Rê, Long Nguyên Dầu Tiếng Kiến Điền Kiến An và cũng không có phần đất thừa kế nào ở Bà Giả, một điều nữa là các con đều đổi thành họ Nguyễn sau 1975 chỉ có ông 8 Cội là đổi thành họ Võ.
Qua 2 lần về thăm khu “Vòng Thành” và bà con ở đấy, lần đầu năm 1991, từ ngả Kiến Điền lên Tân Lập, rồi lội bộ băng sông Thị Tính để qua Long Nguyên, lần thứ nhì năm 1992 theo ngả Bến Cát lên khỏi Cầu Trắng rẻ trái vào, cũng đổ bộ qua đồng ruộng mới đến được, qua đó gợi cho ta biết.
Ông Nhâm khi trưởng thành, có thể gia nhập hàng ngũ quân đội triều đình, (cũng có thể trong chế độ đinh điền theo kiểu Trương Định) đóng quân ở vùng Thanh Tuyền, Dầu Tiếng, Long Nguyên, ông đem cả gia đình vợ con theo, nhưng gặp lúc người Pháp đến chiếm Bến Nghé Sài Gòn, năm 1859 rồi 2 năm sau lấy trọn 3 tỉnh miền Đông, ông bị nội gián phải hy sinh, các con tan tác đổi thành họ Nguyễn và sống vất vã nơi quê người không 1 lần trở lại cố hương.
Khi còn sinh tiền, ông tám Võ Văn Cội (đời V) đã được Võ Văn Sổ giúp sức dựng thành bộ phả cho chi mình và khu Vòng Thành đã được tỉnh Bình Dương dựng bia công nhận di tích lịch sử cấp Tỉnh.
(Kèm 5 trang ký sự về chuyến đi Long Nguyên tháng 5-1992)
+ Thứ ba: Ông VÕ VĂN NGOAN bà NGUYỄN THỊ TỊNH
1818-1912 1820-1904
Mậu Dần - Nhâm Tý Canh Thìn - Giáp Thìn
Giổ 11/3 âm lịch Giổ 12/10 âm lịch
Mộ táng ở “Đồng mã nhà mồ”
Là con thứ ba của Tổ Võ Văn Hai, trong các anh em, chỉ có ông bà nầy là có số liệu năm sanh, năm mất được ghi lại.
Tên làng được đổi lại là Phước Ninh, Đình làng đã được xây cất ông tiếp tục thừa hưởng chức Thôn Trưởng của cha và chuyển tiếp qua làm Hương chức của thời Pháp, kể từ ông nầy đã chức việc làng bình chọn họ Võ là họ Tiền Hiền ở làng. Mộ ông bà được táng ở phần đất của gia tộc, xây đá đỏ bên trên lợp ngói âm dương nên quen gọi là “Nhà Mồ” nơi được tiếp tục an táng con cháu chi họ nầy, nhưng khoảng nữa năm 1920, người trong họ kiêng kỵ gì đó nên tháo dỡ bỏ phần nhà, chỉ còn mộ, trong chiến tranh bị xe tăng cày nát, đến năm 1982 được tôn tạo theo dáng cũ bằng xi măng. Bà quê ở Mũi Lớn Tân An Hội nay, giổ ông bà do nhà ông út Liếng đảm nhiệm, ông bà được phân về ở phía Đông giáp với Tân Phú Trung.
Sanh các con:
Thứ 2: Võ Thị Tình Thứ 3: Võ Văn Ý
Thứ 4: Võ Văn Đề Thứ 5: Võ Văn Lịch
Thứ 6: Võ Văn Mùa Thứ 7: Võ Văn Thơm
Thứ 8: Võ Thị Dứa Thứ 9: Võ Thị Chua
Thứ 10: Võ Văn Điệp
+ Thứ Tư: Ông VÕ VĂN NGÙY bà THỊ HIỆP
Giổ 4/8 âm lịch Giổ 13/1 âm lịch
Mộ ở đồng mã Xóm Bến
Ông khi lập gia đình, được phân về phía bắc của làng, gọi là ấp Phước Thạnh, sanh 6 con, đời III ông Long, ông Nhãn, bà Tươi gả chồng về họ Trương Minh ở Quán Tre, đời IV là các ông: Phi, Hổ, Hiển, Ứng, Mạo, Diệu, Mềm, Mại … Đời V là anh em Vạn, Thọ, anh em Gượng, Thức, anh em Dời, Tránh, anh em Liểng, Quyển, Sấm, Bính, Độp, Mọt V/v…
Ông 9 Diệu (xã Diệu) lúc xây nhà cho mình, được người thợ mộc Phạm Văn Sáng giác ngộ, đã tham gia cuộc KNNK 1940 bị Pháp đốt nhà bắt đầy Côn Đảo, đến 1945 Cách Mạng đưa trở về.
+ Thứ năm: Bà VÕ THỊ THẢO chồng NGUYỄN VĂN MỌI
Bà là con gái thứ năm của Tổ phụ Võ Văn Hay. Không biết năm sanh, năm mất, về ông chồng nghe nói lại ông thuộc đân tộc thiểu số bản địa ở tại đây, không có tên gọi, vì thấy hiền lành nên kêu gả con gái cho, sanh con cháu, nhưng nhà rất ngèo, có 1 số rất ít tại đây. Xét về mặt tạng người, thấy mang dáng dấp thấp lùn, đen đúa và ít nói, vẫn có tới lui nhà thờ khi cúng giổ, còn nhớ tên các con là:
Thứ 2: Nguyễn Văn Tôi Thứ 3: Nguyễn Văn Tồn
Thứ 4: Nguyễn Văn Quảng Thứ 5: Nguyễn Văn Ta
+ Thứ sáu: Bà VÕ THỊ TRUNG chồng LÊ VĂN CHAI
Giổ 3/10 âm lịch Giổ 10/01 âm lịch
Mộ ở ấp Thượng - Tân Thông Hội
Từ xóm Bà Giả, khi trưởng thành, bà được gả chồng về ấp Thượng - Tân An Thông, gần bên Đình Mật Cật, ông bà từ lâu đã được lập miếu thờ nơi ấp Chánh Tân Thông Hội, ngày giổ thường lệ hàng năm 16/8 âm lịch.
Ông bà sanh các con là:
Thứ 3: Lê Thị Thê
Thứ 4: Lê Thị Thị
Thứ 6: Lê Văn Giác vợ Trần Thị Nhung
Thứ 7: Lê Văn Sắc vợ Nguyễn Thị Tròn
Thứ 8: Lê Văn Quận giổ 11/1 âm lịch vợ Hồ Thị Phấn giổ 3/10 âm lịch
- Ông 6: Lê Văn Giác vợ là Trần Thị Nhung
Giổ ông 11/12 âm lịch sanh con là Lê Văn Tôn
Ông Tôn Giổ 25/8 âm lịch vợ là Nguyễn Thị Phượng
Sanh ra:
- Lê Thanh Hạ vợ Trần Thị Gấm
- Lê Văn Tợ vợ Nguyễn Thị Đáng
Con ông Tợ là Lê Văn Phước sanh 1929 mất 2000, giổ 28/3 âm lịch và Lê Thị Rỉ.
+ Thứ bảy: VÕ VĂN CƠ vợ là Bà HUỲNH THỊ CHỮ
Mộ ở đồng mã Xóm Bến
Chưa ghi được năm sanh, năm mất, ngày giổ
Ông được phân về cùng ấp Phước Thạnh với ông tư Võ Văn Ngùy và là người lo việc vớt xác ông hai Nhâm về chôn nơi đồng mã Xóm Bến
Sanh các con:
Thứ 2: Võ Thị Cẩm chồng là ông Quý ở Vĩnh Phước
Thứ 3: Võ Thị Thận chồng là ông Chua ở Cây Sộp
Thứ 4: Võ Thị Thạch chồng là ông Tô ở Bàu Sim
Thứ 5: Võ Văn Phương vợ là bà Bằng
Thứ 6: Võ Thị Nầy chồng là ông Lễ
Thứ 9: Võ Văn Cường
Thứ 10: Võ Văn Cự vợ là bà Lượt
Thứ 11: Võ Thị Dựa chồng Nguyễn Văn Son ở ấp Phước Thới, kế bên
Con ông 5 Phương: (đời IV) là 2 Trao, 3 Hưởng, 4 Chiến,, 5 Trận, 6 Nhuần, 7 Những, 8 Nhiễn, út Lóng.
Con bà út Dựa: 2 Phấn, 3 Gắng, 4 Cương, 5 Phùng, 7 Lánh, 8 Dẩn, 9 Chẩn, 10 Ẩn.
Trong lớp người này có những việc đáng nhớ:
- Ông 10 Cự do bị bế tác trong cuộc sống, có lần đã gia nhập đạo Cao Đài, lôi kéo được 1 số ông họ Võ gia nhập, rồi sau bỏ, đi theo đạo Thiên Chúa, nhưng may mắn lớp người theo Cao Đài không lây tới đám con nên thoát khỏi nạn Tảo Thanh thời Việt Minh, về đạo Thiên Chúa có cất nhà thờ, cũng được 1 số người theo, số tín đồ nầy sau 1945 đã được giặc Pháp ở Củ Chi đón họ bỏ cả nhà cửa về ở Củ Chi, đám trai tráng phải đi lính cho chúng, sau 1975 có người trở về làng, có người ở luôn Củ Chi, đó là biến động sâu sắc trong tộc.
Ông 10 Cự là người đầu tiên viết bản tông chi họ Võ
Ông tư Chiến có lần xin mở cửa Đình để vào khấn vái cho mẹ khỏi bịnh, nhưng do sự kỳ thị sâu sắc của kẻ có quyền, họ không cho, ông bực tức giả điên tổ chức phá cửa trộm Sắc Thần chốn đi, sau bị truy đuổi ráo riết, nên Sắc được thu hồi.
Ông út Lóng là người phóng khoáng vui vẽ, cởi mở, từ trước 1945 ông là người hay lui tới với cánh ông Võ Văn Sót ở Đức Hòa.
+ Thứ tám: Bà VÕ THỊ GIÀU (có thể là Vào)
Không rõ năm sanh, năm mất, phần mộ, có người nói bà được gả chồng về miệt Lái Thiêu, nhưng chết sớm.
+ Thứ chín: Bà VÕ THỊ ĐÂY chồng là Ông LÊ VĂN BỤI
Không rõ năm sanh, mất, nguyên bản viết ông Lê Văn Bụi ở Hố Bò là sai, đúng ra bà được gả về vùng Bến Hỏm của xã Nhuận Đức (nơi trạm bơm Ba Gia ngày nay) đến người con gái thứ 3 Lê Thị Vân mới gả chồng về Hố Bò.
Các con là:
Thứ 3: Lê Văn Lập Thứ 4: Lê Thị Vân
Thứ 5: Lê Văn Là Thứ 6: Lê Thị Lợi
Thứ 9: Lê Thị Tợ Thứ 10: Lê Thị Chọn
Út là: Lê Văn Thêm
+ Ông hai Lê Văn Lập có con là Lê Văn Nhựt
+ Bà tư: Lê Thị Vân chồng là Huỳnh Công Chung ở Cầu Trắng Hố Bò
Sanh ra:
Thứ 3: Huỳnh Công Đợi (Hội Đồng Đợi)
Thứ 4: Huỳnh Công Tư có con gái là Huỳnh Thị Chắn gả chồng là ông Phạm Khải
Thứ 5: Huỳnh Thị Cải, chồng Nguyễn Văn Tây sanh con Nguyễn Thị Nước là vợ đồng chí năm Thắng Bí Thư huyện ủy Củ Chi
Thứ 6: Huỳnh Công Tánh
Thứ 7: Huỳnh Công Hạnh
Thứ 8: Huỳnh Thị Cửu
Thứ 9: Huỳnh Công Bích là thân phụ của Huỳnh Công Hùng đại biểu HĐND Tp.
Thứ 10: Huỳnh Thị Bùng
Thứ 11: Huỳnh Công Tất
Thứ 12: Huỳnh Công Nghỉ thân phụ của Huỳnh Công Trạch nguyên Bí Thư Tỉnh Đoàn Biên Hòa, và cháu là Huỳnh Thị Khanh (Tuyết) Phó Chánh án Tòa án nhân dân Tp. HCM
+ Ông năm: Lê Văn Là
Có các con là:
Thứ 3: Lê Văn Xượt Thứ 4: Lê Văn Nhướng
Thứ 7: Lê Thị Thao Thứ 8: Lê Thị Lược
Thứ 9: Lê Văn Bược
+ Bà sáu: Lê Thị Lợi
Con là:
Thứ 4: Lê Thị Kỷ Thứ 5: Lê Văn Tân Thứ 6: Lê Văn Cư
+ Bà chín: Lê Thị Tợ
Con là:
Thứ 6: Lê Văn Hậu Thứ 7: Lê Thị Dần
+ Bà mười: Lê Thị Chọn chồng Thầy Nhận
Sanh con:
Thứ 2: Lê Thị Ngưu Thứ 4: Lê Văn Xướng
Thứ 6: Lê Văn Mấy Thứ út: Lê Văn Bề
+ Ông út: Lê Văn Thêm vợ là bà Nguyễn Thị Thiệp
Sanh ra:
Chị cả: Lê Thị Đang Thứ 2: Lê Thị Rở Thứ 3: Lê Thị Mừng
Thứ 4: Lê Thị Vui Thứ 5: Lê Thị Dùng Thứ 6: Lê Văn Xếp
Thứ 7: Lê Tấn Đức (tức Nẹ)
Thứ 8: Lê Văn Ni ông nầy về ở Mỹ Phước Bến Cát
Thứ 9: Lê Văn Út
- Thứ mười: Ông VÕ VĂN ĐÓ vợ Bà NGUYỄN THỊ BÉ
Giổ 10/2 âm lịch Giổ 3/9 âm lịch
Mộ ông ở đất nhà Mộ bà ở đồng mã Xóm Bến
Ông là con út và là người trực tiếp phụng dưỡng cha mẹ đến cuối đời và thừa hưởng phần nhà cửa đất thổ cư, rồi truyền lại cho lớp kế thừa, đất nầy theo như sổ địa bạ 1836 đã ghi mà nay thế hệ đời V chi ông mười Đó đang ở, vào thời trước có “nhà việc Làng” hiện giờ là nhà từ đường Võ tộc.
Ông bà sanh ra đời III con là:
Thứ 2: Võ Văn Đăng Thứ 3: Võ Văn Rạch
Thứ 4: Võ Văn Các Thứ 5: Võ Văn Kiểm
Thứ 6: Võ Văn Canh Thứ 7: Võ Văn Bầu
Thứ 9: Võ Văn Lưu Thứ 10: Võ Văn Lai
Đời IV ( Chi ông mười Võ Văn Đó)
- Ông hai: Võ Văn Đăng, giổ 15/12 âm lịch Bà Nguyễn Thị Giá, giổ 17/1 âm lịch, chưa ghi lại được.
- Ông ba: Võ Văn Rạch, giổ 19/9 âm lịch
Sanh 3 con gái là:
Võ Thị Tèm Võ Thị Đa Võ Thị Lạng
- Ông tư: Võ Văn Cát, giổ 27/7 âm lịch.
Sanh:
Võ Văn Phấn Võ Văn Ngâm Võ Thị Bưng Võ Thị Ngưng
Võ Thị Nga chồng là Tô Văn Khiết người ở cùng ấp
Võ Thị Nghe Võ Thị Hong
- Ông năm: Võ Văn Kiểm, người vợ đầu chết sớm, có 1 con, cưới bà vợ kế tên là Hối không rõ con cái.
- Ông sáu: Võ Văn Canh, giổ 30/10 âm lịch + Bà Nguyễn Thị Hòa, giổ 4/8 âm lịch.
Sanh ra:
Võ Văn Giáp Võ Thị Măng Võ Văn Kiệu
Võ Thị Bứa Võ Thị Trái
(Bà Bứa và bà Trái đều là bà mẹ Việt Nam anh hùng, các người trai nầy có vài người theo đạo Cao Đài)
- Ông bảy: Võ Văn Bầu, giổ 27/12 âm lịch + Bà Trần Thị Đe, giổ 22/11 âm lịch
Các con là:
Võ Văn Đây Võ Văn Quánh Võ Văn Miêng Võ Thị Siêng
Võ Văn Mọt
- Ông chín: Võ Văn Lưu, giổ 23/11 âm lịch + Bà Trần Thị Bạch, giổ 11/4 âm lịch
Các con là:
Võ Văn Tú Võ Thị Rén Võ Thị Én
- Ông út: Võ Văn Lai, giổ 20/8 âm lịch + Bà Nguyễn Thị Lự, giổ 23/9 âm lịch
Các con:
Võ Thị Rai Võ Văn Vẳng Võ Văn Khẳng Võ Thị Rái
Ta thấy vấn đề kế tự theo tập quán họ Võ là để lại cho người con trai út được thừa hưởng và trực tiếp cúng giổ cha mẹ, phần thừa kế có thể nhỉnh hơn các người con khác, nhưng không có phần hương hỏa. Do đó ta biết Tổ phụ Võ Văn Hay kế thừa là ông Võ Văn Đó đời II, ông Đó chuyển cho ông út Võ Văn Lai đời III, ông Lai truyền lại cho ông 5 Khẳng đời IV hiện còn sống, tương lai là sẽ giao lại cho ông 6 Trân đời V.
Các người anh em nầy hiện sống nơi đất nhà của mình xung quanh nơi phát tích đầu tiên, cùng chung với chi ông Võ Văn Sáng, ông hai Nhâm không có đất, ông ba Ngoan ra ở riêng giáp ranh thôn Tân Phú Trung, ông tư Ngùy và ông bảy Cơ về phía bắc nơi ấp Phước Thạnh, ông mười Đó ở tại chổ trung tâm xóm Bà Giả, các người con gái đều về quê chồng, đến đời III thì có 2 người con ông ba Võ Văn Ngoan mới mở rộng sang Xóm Đồng sau thành ấp Phước Yên, nay là ấp 2 Phước Vĩnh An.
Như nói ở trên, ngoại trừ chi ông ba Võ Văn Ngoan được viết đầy đủ, còn các chi khác đã được thể hiện đủ nơi bản phả đồ đang lưu trử nơi nhà từ đường họ Võ.
ĐỜI THỨ III
Chi ông Võ Văn Ngoan
- Bà hai: VÕ THỊ TÌNH chồng ông NGUYỄN VĂN QUYỀN
Bà là con gái trưởng của ông ba Ngoan, ông Quyền là con thứ năm của ông Nguyễn Văn Luông, thân phụ ông Luông là người ở miệt Gò Vắp về đây cư ngụ, sớm có thế lực vì hợp tác với người Pháp, có 2 đời làm Cai Tổng Long Tuy Thượng sở tại, việc kỳ thị họ tộc, mạnh được yếu thua xãy ra triền miên, qua nhiều đời do quan hệ hôn nhơn, thành ra bên nội bên ngoại, nên chủ ý của lớp người trước dần dần bị xóa bỏ. Nhà ông bà ở cách với nhóm họ Võ bởi một eo ruộng Bào Dầu, nghe nói phần đất nầy cũng do họ Võ cho con gái khi về nhà chồng.
Ông bà sanh các con:
+ Thứ 2: Nguyễn Thị Tánh lấy chồng là Trần Văn Bành nhà ở cùng phía họ Nguyễn sanh con:
Thứ 2: Trần Văn Rành
Thứ 3: Trần Văn Rảnh
Thứ 4: Trần Thị Rới chồng là Tô Văn Quyến ở cùng xóm
Thứ 7: Trần Văn Như không vợ con, chạy xe kéo ở Sài Gòn
Thứ 8: Trần Thị Tẩu chồng Võ Văn Nen, người ở Tân Thới Tứ, làm Biện Tổng cho ông Cai Tổng Nguyễn Văn Kỷ, nên nhà ở tại đây. Ông bà không con
Thứ 9: Trần Văn A, từ nhỏ đã sống ở Sài Gòn, có vợ con nhưng không về xứ.
+ Thứ 3: Nguyễn Văn Hợi vợ bà Mai Thị Chuốt
Ông làm đến chức Hương Chủ, là cháu ngoại của Ông Võ Văn Ngoan, ông là người đã can thiệp vào việc ông ba Ngoan có cúng vào Đình 1 bàn thờ, trên có khắc chữ: “Võ Văn Ngoan phụng cúng” đã bị các chức sắc họ Nguyễn không chịu lạy thần vì họ nói là lạy ông Ngoan và đòi phá hủy bàn thờ, thật là tâm địa hẹp hòi và có chủ ý.
Ông bà có các con:
Thứ 2: Nguyễn Văn Mót
Thứ 3: Nguyễn Văn Máy
Thứ 4: Nguyễn Văn Trừ bịnh điên sau khi có vợ con
Thứ 5: không rõ
Thứ 6: Nguyễn Thị Trợt
Thứ 7: Nguyễn Thị Thuấn, chồng là Nguyễn Văn Trái, thợ mộc
Thứ 8: Nguyễn Thị Luận chồng Nguyễn Văn Miễn, Hương Thân, con Hương Cả Vấp.
+ Thứ 4: Nguyễn Văn Hộ
Chỉ biết được con thứ 4: Nguyễn Văn Hiểu, thứ 5: Nguyễn Thị Chỉnh
+ Thứ 5: Nguyễn Văn Ất vợ Đặng Thị Gọn
Sanh ra:
Thứ 2: Nguyễn Thị Gàn Thứ 3: Nguyễn Thị Rong
Thứ 4: Nguyễn Thị Bèo Thứ 5: Nguyễn Văn Phỉnh
Thứ 6: Nguyễn Thị Lổi Thứ 7: Nguyễn Thị Lia
Thứ 8: Nguyễn Thi Nhiệp Thứ 9: Nguyễn Văn Hia
+ Thứ 6: Nguyễn Thị Giỏi chồng Nguyễn Văn Ý
Sanh ra:
Thứ 2: Nguyễn Văn Tản Thứ 4: Nguyễn Thị Vây
Thứ 5: Nguyễn Thị Dơn Thứ 7: Nguyễn Thị Phe
Thứ 8: Nguyễn Thị Che Thứ 9: Nguyễn Thị Cháng
Thứ 10: Nguyễn Thị Mởn Thứ 11: Nguyễn Văn Tại (tự Bầy)
Thứ 12: Nguyễn Văn Tiệm
+ Thứ 7: Nguyễn Thị Hỏi chồng Phạm Văn Tú
Chỉ biết con là thứ 5: Phạm Văn Sẽ, thứ 6: Phạm Thị Sua
Về các con bà Võ Thị Tình, chỉ có con ông ba Hợi là tại địa phương, còn các người em trai nghe nói đi về sinh sống ở vùng Rạch Kè, con cháu không thấy về quê hương.
- Thứ ba: Ông VÕ VĂN Ý và Bà NGÔ THỊ KE
Giổ 22/8 âm lịch Giổ 24/7 âm lịch
Ông là ngành trưởng, sớm ra riêng khi có gia đình, bà người ở Cây Bài, cha là Ngô Văn Sanh trước ở Bàu Tre về đây có 8 con, bà thuộc thứ 3 nghe nói, cha mẹ chạy loạn khi Pháp chiếm Nam kỳ, bà sanh ra nơi Truông Cò Ke ở dốc Đồng Sổ (Bến Cát) nên đặt tên là Ke, gia đình theo nghề ruộng rẫy, ông Ý phải đi làm rể 3 năm mới được chánh thức cưới bà, và sanh khá đông con. Mộ ông bà ở khu “Nhà Mồ” trong chiến tranh bị một quả bom bay mất một mộ, đã được trùng tu.
Các con:
Thứ 2: Võ Văn Oai Thứ 3: Võ Thị Phuông
Thứ 4: Võ Văn Bè Thứ 5: Võ Thị Học
Thứ 6: Võ Văn Trò Thứ 7: Võ Thị Biên
Thứ 8: không có Thứ 9: Võ Thị Hường
Thứ 10: Võ Thị Hố Thứ 11: Võ Văn Kế
Thứ 12: Võ Văn Còn Thứ 13: Võ Văn Vốn
Thứ 14: Võ Văn Liếng
- Thứ tư: VÕ VĂN ĐỀ Bà 1: THỊ LĂNG
Giổ 6/2 âm lịch Bà 2: không nhớ tên
Mộ ở đồng mã Phước Yên
Khi gia đình ông bà nầy qua ấp Phước Yên mở đất, khai thác để ở, không rõ về hành trạng, có các con:
Thứ 2: Võ Văn Hân Thứ 3: Võ Văn Nhân là con với bà 1
Thứ 4: Võ Văn Ìa Thứ 5: Võ Văn Kiểm
Thứ 7: Võ Văn Me Thứ 8: Võ Thị Khỉa là con bà 2
- Thứ năm: VÕ VĂN LỊCH bà MAI THỊ HUÊ
Giổ 9/11 âm lịch Giổ 30/8 âm lịch
Mộ ở đồng mã Đình
Gia đình ông bà xây cất nhà cửa ở gần ông nội Võ Văn Hay, theo nghiệp nông, bà Huê quê ở Tân Thông.
Sanh các con:
Thứ 2: Võ Văn Nhuận Thứ 3: Võ Văn Ái
Thứ 4: Võ Văn Yến Thứ 5: Võ Văn Bội
- Thứ 6: VÕ VĂN MÙA Bà 1: NGUYỄN THỊ AM ở Tân Phú
Giổ 6/5 âm lịch Bà 2: CAO THỊ ĐỎ mất 1952, ở Mũi Lớn
Mộ ở đồng mã Phước Yên
Ông sáu tiếp bước theo anh tư Đề về ở bên ấp Phước Yên, có học chữ nho ra làm Hương chức Hội tề, thấy rằng cả 3 đời liên tiếp giữ việc làng.
Ông bà sanh ra:
Thứ 2: Võ Thị Hè Thứ 7: Võ Văn Hưng
Thứ 8: Võ Thị Chình Thứ 9: Võ Văn Liền
Trên đây là con bà 1
Thứ 10: Võ Văn Bót Thứ 11: Võ Văn Ngọn
Thứ 12: Võ Văn Cường
3 người nầy là con bà 2
- Thứ bảy: VÕ VĂN THƠM bà NGUYỄN THỊ HỚN thuộc cánh họ Nguyễn ở cùng xóm
1855-1929 1860-1932
Giổ 17/12 âm lịch Giổ 12/9 âm lịch
Mộ chôn ở đồng mã kế nhà ông 7 Tước
Nhà ở được phân ở phía sau ông 3 Ý. Có các con:
Thứ 2: Võ Văn Tho Thứ 3: Võ Văn Nhương
Thứ 4: Võ Văn Di Thứ 7: Võ Văn Tước
Thứ 9: Võ Văn Kích Thứ út: Võ Thị Mạnh
- Thứ tám: Bà VÕ THỊ DỨA ngày giổ 28/7 âm lịch
Mộ ở khu mộ nhà ông 2 Đức
Bà tám Dứa gả chồng về Xuân Thới Thượng, lúc đang mang thai, bà về quê thăm cha mẹ, không may nằm võng, bị đứt võng sẫy thai và chết cả mẹ lẫn con nên chôn tại quê nhà.
- Thứ chín: Bà VÕ THỊ CHUA chồng NGUYỄN VĂN HUẾ
Giổ 22/11 âm lịch Người ở Tân Thông
Sanh 2 con gái là: Nguyễn Thị The và Nguyễn Thị Bưởi, đều có con cái và về sinh sống ở vùng Chợ Lớn, mộ bà ở đồng mã “Nhà mồ”
- Thứ mười: Ông VÕ VĂN ĐIỆP + Bà TRẦN THỊ CHỔ quê ở Tân Thông
1871-1907 1875-1958
Giổ 7/10 âm lịch Giổ 28/11 âm lịch
Ông theo nghề nông, làm làng đến chứ Hương Trưởng, mất khi còn khá trẻ do uống lầm độc dược, được chôn ở khu “Nhà mồ”, bà mất sau 1954 xóm làng tạm yên nên được chôn ở đất nhà, ông là con út nên được ở nhà cha Võ Văn Ngoan.
Các con là:
Thứ 2: Võ Thị Bậu Thứ 3: Võ Văn Bạn chết nhỏ
Thứ 4: Võ Văn Neo Thứ 5: Võ Văn Buồm chết nhỏ
Thứ 6: Võ Văn Bình Thứ 7: Võ Văn Trình
Thứ 8: Võ Văn Cờ Thứ út: Võ Văn Bạc
ĐỜI THỨ IV
Các con ông Võ Văn Ý
+ Thứ hai: Ông VÕ VĂN OAI bà PHẠM THỊ BÌ quê Tân Thông
Giổ 26/5 âm lịch Giổ 13/11 âm lịch
Theo nghiệp nông, đến thời ông vẫn còn khai khẩn thêm được đất công để mở rộng thêm đất cho gia đình, ông là người đứng tên khu đất “nhà mồ” và rất khó tính trong việc chôn cất ở đây, mộ ông bà ở trong khu nầy.
Các con là:
Thứ 2: Võ Văn Cai Thứ 3: Võ Thị Vậy
Thứ 4: Võ Văn Võ Thứ 5: chết nhỏ
Thứ 6: Võ Thị Vâm Thứ 7: Võ Thị Dấm
Thứ 8: Võ Thị Tơi Thứ 9: Võ Thị Tắng
Thứ 10: Võ Thị Hắng Thứ út: Võ Văn Hặng
+ Thứ ba: Bà VÕ THỊ PHUÔNG + Ông LÊ VĂN DỤNG
Quê Xuân Thới Thượng
Mộ ở khu mộ nhà ông 2 Đức Mộ ở Xuân Thới Thượng
Bà ba Phuông lấy chồng về Giồng Bằng Lăng (Xuân Thới Thượng), sanh 4 con rồi chồng chết, bà theo các con về ở Sài Gòn, nhưng sau 1945 bà trở về quê mình Bà Giả ở với người em út cho dù quê hương trong thời chiến tranh, rồi bịnh già mà mất ở quê, con cái ở Sài Gòn không về được.
Các con là:
Thứ 2: Lê Văn Đuông Thứ 3: Lê Văn Chành
Thứ 4: Lê Văn Trâm Thứ 6: Lê Thị Bời Chết nhỏ
+ Thứ tư: Ông VÕ VĂN BÈ bà ĐẶNG THỊ TÌNH, ở Ấp Giữa
1878-1947 1880-1947
Giổ 28/3 âm lịch Giổ 25/3 âm lịch
Ông tư Bè lấy vợ và về ở quê vợ Ấp Giữa Tân Phú Trung, do bất đồng gì đó, ông bỏ về Bà Giả, ở đây bà Tình quan hệ với 1 người Hoa rồi mang thai, rồi người Hoa bỏ về nước.
Bà sanh con đặt tên Đặng Văn Mua theo họ mẹ rồi ông tư tiếp tục trở lại sinh sống với bà sanh 4 người con, lúc già ông làm thuốc cao đơn hoàn tán đi bán và theo đạo Cao Đài, năm 1947 giặc Pháp từ quốc lộ 1 càn quét vào, hai ông bà ở trong nhà bị chúng bắn chết.
Các con:
Thứ 2: Đặng Văn Mua, con tư sinh của bà
Thứ 3: Võ Thị Dồi
Thứ 4: Võ Văn Niêu
Thứ 6: Võ Văn Nhạc
Thứ 7: Võ Thị Qui
+ Thứ năm: VÕ THỊ HỌC + TÔ VĂN TẠI
Ông Tại là em Hương Cổ Tô Văn Tường ở cùng xóm, ông làm nghề thuốc nam, không biết năm sanh, năm mất, mộ ở đâu.
Các con là:
Thứ 2: Tô Thị Quyên chồng là Pham Văn ky ở Ấp Giữa
Thứ 3: Tô Thị Khuyên có chồng về Tân Thông
Thư 4: Tô Văn Dần ở tại Bà Giả, các con lưu tán không về
+ Thứ sáu: VÕ VĂN TRÒ Bà 1: PHAN THỊ CẦM, quê Giồng Sao
1879-1943 Mất 1944, Giổ 1/2 âm lịch
Giổ 21/1 âm lịch Bà 2: NGUYỄN THỊ ÍCH, Quê Ấp Chợ
1898-1986. Giổ 6/10 âm lịch
Ông tới tuổi trúng thăm đi lính ở Thành Pháo Thủ Sài Gòn, khi giải ngũ về làng làm ruộng cưới bà Phan Thị Cầm, sanh 2 con, đến lần thứ 3 do sanh khó chết cả mẹ lẫn con, vài năm sau ông tục huyền với bà Nguyễn Thị Ích ở Ấp Chợ Tân Phú, sanh 1 con nữa, ông là tín đồ Cao Đài, khi ông mất, thì người con trai đã đem trả tượng, mũ áo cho giáo hội.
Các con là:
Thứ 2: Võ Văn Bộ Thứ 3: Võ Thị Biền là con bà 1
Thứ 4: Võ Văn Cầu con bà 2
+ Thứ bảy: VÕ THỊ BIÊN + NGUYỄN VĂN CAN
1881-1965 1872-1923
Giổ 13/5 âm lịch Quê Tân Thạnh Đông
Mộ chôn ở Tân Thạnh Đông
Bà bảy Biên thuở còn con gái được gả chồng về Bà Điểm, qua 3 năm không sanh con, nên bị nhà chồng trả về, ông Can một nhà giàu ở Tân Thạnh Đông góa vợ có 4 con, xin cưới bà và có tiếp 9 người con nữa:
Thứ 6: Nguyễn Văn Cần Thứ 7: Nguyễn Văn Câu
Thứ 8: Nguyễn Thị Tiệp chết nhỏ Thứ 9: Nguyễn Thị Nghỉ
Thứ 10: Nguyễn Văn Liêm Thứ 11: Nguyễn Văn Liềm
Thứ 12: Nguyễn Thị Giáp Thứ 13: Nguyễn Thị Ngọ
Thứ 14: Nguyễn Văn Út
+ Thứ tám: VÕ THỊ HƯỜNG + NGUYỄN VĂN SAI
1884-1928 Ở Tân Thạnh Đông
Các con là:
Thứ 2: Nguyễn Thị Minh Thứ 3: chết nhỏ
Thứ 4: Nguyễn Thị Tính Thứ 5: Nguyễn Văn Gương
Thứ 6: Nguyễn Văn Hoa (chết nhỏ) Thứ 7: Nguyễn Thị Huyền
Thứ út: Nguyễn Văn Thanh
+ Thứ mười: VÕ THỊ HỐ + ông mười THẢN ở Tân Thông
Bà mười Hố được gả chồng về Tân Thông, nơi gần Đình và đầu bến ấp Chánh – Tân Thông, ông bà sống với nhau đến già nhưng không có con
+ Thứ mười một: VÕ VĂN KẾ + NGUYỄN THỊ NHIỆM quê Bến Đò
1888-1948 1890-1954
Mộ ở khu “nhà mồ”
Có các con:
Thứ 2: Võ Thị Khê Thứ 3: Võ Thị Khen
Thứ 4: Võ Văn Trương Thứ 5: Võ Thị Trện
+ Thứ mười hai: VÕ VĂN CÒN + LÊ THỊ NHỒNG
Bà Nhồng là cháu gọi ông Phủ Kỷ bằng cậu, được ông Phủ nuôi dưỡng và gả về ông út Còn ở cùng xóm, ông về già mắc bịnh suyển nặng, được mọi người gọi là ông út “Hò He”, ông bị Tây đi ruồng bắn chết cùng lượt với 1 ông sui.
Các con là:
Thứ 2: Võ Thị Triên Thứ 3: Võ Văn Sửu chết nhỏ
Thứ 4: Võ Văn Tráng Thứ 5: Võ Văn Bảy
Thứ 6: Võ Văn Đòi Thứ 7: Võ Văn Ngòi chết nhỏ
Thứ 8: Võ Văn Dứt chết nhỏ
+ Thứ mười ba: VÕ VĂN VỐN + Bà 1: THỊ NHÀNH, giổ 16/11 âm lịch
1894-1947 Bà 2: NGUYỄN THỊ INH
Giổ 13/5 âm lịch
Mộ ông ở khu “Nhà mồ” nay mất dấu
Ông là người từng trải, lịch duyệt đi lại nhiều nơi, nuôi ngựa đua, mở xưởng dệt, lò nhuộm rầm rộ một thời, cho đến 1945
Bà Nhành người ở Ấp Giữa chỉ có 1 con rồi bịnh mất, ông tục huyền với bà Inh ở Cây Bài, nay bà Inh vẫn mạnh và ở Cây Bài với người con út Võ Văn Then
Các con là:
Thứ 2: Võ Văn Chì Con bà 1
Thứ 3: Võ Thị Quả Thứ 4: Võ Thị Thược
Thứ 5: Võ Văn Cược Thứ 6: Võ Thị Phược (Hoạch)
Thứ 7: Võ Văn Then
+ Thứ mười bốn (út chót): VÕ VĂN LIẾNG + TRẦN THỊ LỐI quê Bàu Sim
1896-1974 1900-1993
Giổ 29/4 âm lịch Giổ 27/8 âm lịch
Mộ chôn ở đất nhà
Ông có dáng người vặm vở, bụng bự, người ta gọi là ông út Bụng, tánh tình vui vẽ, cười nói rổn rảng, sinh thời đánh xe thổ mộ đưa khách từ đây đi chợ Hóc Môn, ông mất lúc tản cư ở Quán Đôi, bà mất sau khi ở Sài Gòn với con.
Các con là:
Thứ 2: Võ Văn Liên chết nhỏ Thứ 3: Võ Thị Xiển
Thứ 4: Võ Văn Yển Thứ 5: gái, chết nhỏ
Thứ 6: gái, chết nhỏ Thứ 7: Võ Văn Ỉnh
Thứ 8: Võ Thị Ửng (Tám) Thứ 9: Võ Văn Lý
Thứ út: Võ Văn Bông
ĐỜI THỨ V
CÁNH ÔNG BA VÕ VĂN Ý
Con ông Võ Văn Oai
- Thứ hai: VÕ VĂN CAI + THỊ KHUYÊN
1893-1954 Ở Cây Bài
Mộ ở khu “nhà mồ”
Gia đình theo nghiệp nông, ông có xe thổ mộ đưa rước bạn hàng đi chợ Hóc Môn mỗi buổi sáng, nơi đất nhà ông có hầm bí mật trốn Tây, bị khám phá và giết nhiều người vào năm 1950
Các con là:
Thứ 2: Võ Văn Lỷ
Thứ 3: Võ Văn Phỉ, ban Quân Lương chi đội 12, chết ở hầm bí mật năm 1950
Thứ 5: Võ Văn Phăn có vợ Đặng Thị Trân ở Bàu Hóc
Thứ 6: Võ Văn Phới còn trẻ, chết ở hầm năm 1950
- Thứ ba: VÕ THỊ VẬY chồng TÊN ÉN
Sanh 1895 Ở Cây Dầu
Ông bà có 3 con đều hy sinh trong Kháng Chiến chống Pháp, 3 con tên là: Lầm, Gì, Hai.
- Thứ Tư: VÕ VĂN VÕ + NGUYỄN THỊ ĐIỂM
1898-1942 1904-1978
Giổ 22/5 âm lịch Giổ 1/10 âm lịch
Mộ ở khu “nhà mồ”
Các con là:
Thứ 2: Võ Thị Đếm Thứ 3: Võ Thị Nét
Thứ 4: Võ Thị Xen Thứ 5: Võ Văn Kẻ
Thứ 6: Võ Văn Đạt (Đực) Thứ 7: Võ Thị Bế
Các người nầy đều đã có gia đình, con cháu nội ngoại đầy đủ, nhưng chưa cập nhật
- Thứ sáu: VÕ THỊ VÂM Chồng 1 NGUYỄN VĂN CHỈNH
1900-1950 1889-1939
Giổ 11/11 âm lịch Giổ 23/9 âm lịch
Chồng 2 NGUYỄN VĂN HOẶC
1902-1942
Mộ bà ở đồng mã “nhà mồ” Mộ 2 ông ở đồng mã Xóm Bến
Con ông Chỉnh:
Thứ 2: Nguyễn Văn Ghê
Thứ 3: Nguyễn Thị Xê
Thứ 4: Nguyễn Văn Xét
Con ông Hoặc:
Thứ 5: Nguyễn Văn Nết
2 Ghê có vợ con, bịnh mất ở quê, 3 người còn lại chạy giặc về Xuân Thới Sơn rồi lập gia đình con cái ở đó.
- Thứ bảy: VÕ THỊ DẤM 1903-1932, không biết tên chồng, ở Bàu Sim
Có 3 con là: Văn Đặc, Văn Sền, Thị Lái chồng người Hoa có 3 con đã xuất ngoại.
- Thứ tám: VÕ THỊ TƠI chồng HUỲNH VĂN NƯNG
1906-1975 1901-1953, quê Bàu Sim
Các con là:
Thứ 2: Huỳnh Văn Nừng Thứ 3: Huỳnh Thị Nả
Thứ 4: Huỳnh Văn Nư Thứ 5: Huỳnh Thị Hư
Thứ 6: Huỳnh Thị Khuyến Thứ 7: Huỳnh Văn Khuyển
Thứ 8: Huỳnh Văn Thạch Thứ 9: Huỳnh Văn Cẩm
Thứ 10: Huỳnh Văn Lợt Thứ 11: Huỳnh Văn Dết
Thứ 12: Huỳnh Văn Hết Thứ 13: Huỳnh Văn Giới
- Thứ chín: VÕ THỊ TẮNG + ÔNG THẠCH
1909-1945 Ở Sài Gòn
Bà chín Tắng lớn lên về tìm việc và sống ở Sài Gòn, không con, khi bịnh mất được các cháu đem về chôn ở khu “nhà mồ”
- Thứ mười: VÕ VĂN HẮNG + LÂM THỊ DẦN
1912-1987 Quê Giồng Sao hiện còn sống
Giổ 14/7
Mộ ở khu “nhà mồ”
Các con là:
Thứ 2: Võ Thị Hảo Thứ 3: Võ Thị Ảo
Thứ 4: Võ Văn Xắng Thứ 5: Võ Thị Hoắng
- Thứ út: VÕ VĂN HẶNG + BÙI THỊ LƠ
1919-1947 1920-1990
Giổ 4/8 âm lịch Giổ 1/10 âm lịch
Mộ ở khu “nhà mồ”
Các con:
Thứ 2: Võ Thị Gái lớn Thứ 3: Võ Thị Gái nhỏ
Thứ 4: Võ Thị Tuyết Thứ 5: Võ Văn Đực (5 Cháy)
Thứ 6: Võ Văn Lem
Các con bà ba Võ Thị Phuông
Thứ hai: LÊ VĂN DUÔNG Bà 1 LÊ THỊ KÉO
1890-1959 Sanh 1892
Giổ 15/6 âm lịch Bà 2 Không nhớ tên
Ông 2 Đuông gốc người Xuân Thới Thượng nhưng lớn lên anh em đều sinh sống ở Sài Gòn, là công chức Sở Trường Tiền, chuyên nuôi ngựa đua, nỗi tiếng 1 thời trường đua Phú Thọ, làm con nuôi cho ông Huỳnh Trung Tuất, hộ Trưởng hộ 4 Thành phố Sài Gòn, ông nầy là 1 trong số 28 vị chức sắc làm đơn ngày 17/10/1926 gởi Thống Đốc Nam Kỳ Le Fol, để xin khai đạo Cao Đài giáo phái Bến Tre, cũng do đó mà có 1 số người họ Võ ở Bà Giả thành tín đồ Cao Đài.
Ông và vợ 1 sanh ra:
Thứ 2: Lê Văn Ven, làm lính sở chửa lửa
Thứ 3: Lê Thị Phân chồng là Nguyễn Văn Kiễm, người ở Gò Đen làm thơ ký cho ông Hộ Tuất, nay con cái ở Thành phố.
Thứ 4: Lê Văn Huy, học sinh, tham gia Kháng Chiến 1945, rút ra chiến khu Đồng Tháp Mười, chết mất tích.
Thứ ba: LÊ VĂN CHÀNH, làm đội Police (Cảnh sát) có vợ con, nhưng nay không biết ở đâu.
Thứ năm: LÊ VĂN TRÂM, cũng là công chức, có vợ con, nhà ở cư xá Đô Thành, nay không có liên lạc.
Con ông tư Võ Văn Bè
- Thứ ba: VÕ THỊ DỒI chồng LÊ VĂN ĐỆ
1902-1986 Mất 1945
Giổ 25/2 âm lịch
Ông Đệ người ở chợ Hóc Môn, theo về quê vợ ở Ấp Giữa, mở tiệm thợ bạc dựa đường Quốc Lộ. Ông bà không con, cuộc sống khá giả nên bao bọc nuôi nấng em là Võ Thị Qui, sau khi vợ chồng bà Dồi qua đời, đất đai ruộng vườn đều bị con bà Qui đoạt hết.
- Thứ tư: VÕ VĂN NIÊU - TRẦN THỊ THANH, ở Cây Da
1909-1940 1908-1988
Giổ 24/9 âm lịch Giổ 3/11 âm lịch
Ông tư Niêu đánh xe bò chở mủ cao su cho sở Tây BaLu và có nghề đờn bóng rổi, ông mất lúc 32 tuổi, bà vợ đi tái giá.
Các con là:
Thứ 3: Võ Thị Lùn, trước sau có 2 đời chồng và 7 con
Thứ 4: Võ Văn Dũng nghề xây dựng, có 10 con, ở Ấp Giữa
Thứ 5: Võ Văn Cấm có 3 con tên Miên, Liên, Lèo
Thứ 6: Võ Thị Thậm lấy chồng về Gò Vấp
- Thứ sáu: VÕ VĂN NHẠC + NGUYỄN THỊ XUÂN
Làm ruộng ở Ấp Giữa
Chỉ có 1 trai là Võ Văn Tấn có 7 con 4 trai 3 gái
- Thứ bảy: VÕ THỊ QUI + LÊ VĂN TƯ ở Ấp Chợ
Gia đình ở Ấp Giữa sanh đông con nhưng chỉ còn:
Thứ 3: Lê Văn Đụng Thứ 4: Lê Thị Mảnh
Con bà năm Võ Thị Học
- Thứ hai: TÔ THỊ QUYÊN ở tại Bà Giả gả chồng là ông Phan Văn Ky ở Ấp Giữa
- Thứ ba: TÔ THỊ KHUYÊN gả chồng về Tân Thông
- Thứ tư: TÔ VĂN DẦN ở tại nhà cha mẹ ở Bà Giả có vợ con, nhưng trong chiến tranh, chạy tản lạc, nay không có liên lạc.
Con ông Võ Văn Trò
- Thứ hai: VÕ VĂN BỘ + NGUYỄN THỊ SĂNG
1906-1950 Sanh 1908
Giổ 25/5 âm lịch
Mộ ở khu “nhà mồ”
Lớn lên với nghề ruộng rẫy, biết chử nho, viết chữ việt đẹp, mua bán ngựa đua, ngựa xe, thường đi Nam Vang mua ngựa chở bằng tàu về Sài Gòn bán, giao thiệp rộng rãi với giới tuyệt phích, gần gủi với anh em con cô là ông 2 Đuông, thời 1940 có khung cửi dệt vải lụa về phụ giúp kinh tế gia đình, bà Săng quê ở xóm Cây Da.
Ông 2 Bộ tham gia UBKC/HC xã, ngày 9/7/1950 bị Pháp khám phá hầm bí mật bắn chết, trong đó có 1 con gái thứ 5 và 1 số người nửa con ông 2 Cai, ngày giổ là 25/5 âm lịch, ông được nhà nước phong tặng là Liệt Sĩ, ông là con bà 1.
Các người con:
Thứ 2: Võ Văn Sổ sanh 1928 vợ Trần Thị Huê ở Bến Lức
Thứ 3: Võ Văn Phức chết 7 tháng tuổi, giổ 17/7 âm lịch
Thứ 4: Võ Văn Sạng chết lúc 7 tuổi, giổ 11/2 âm lịch
Thứ 5: Võ Thị Rạng sanh 1936 chết ở hầm một lượt với cha
Thứ 6: Võ Thi Cấm sanh 1938 chồng Võ Văn Đài
Thứ 7: Võ Ngọc An sanh 1940 vợ Trần Thị Kim Sơn
Thứ 8: Võ Thị Thọ chết lúc 9 tuổi, giổ 9/2 âm lịch
Thứ 9: Võ Thị Tiếng sanh 1945 chồng Trần Văn Đắc quê ở Bình Dương
Thứ 10: Võ Thị Chọn chết lúc 3 tuổi, giổ 15/2 âm lịch
Thứ út: Võ Ngọc Bé sanh 1950 vợ Nguyễn Thị Kim Vân người ở Sài Gòn
- Thứ ba: VÕ THỊ BIỀN, con bà 1 + TRẦN VĂN PHIÊN ở Ấp Chợ
1910-1997 1903-1991
Giổ 22/10 âm lịch Giổ 7/12 âm lịch
Mộ nơi đất nhà Ấp Chợ Tân Phú Trung
Gia đình khá giả, có nhiều ruộng đất, các con là:
Thứ 2: Trần Thị Tươm (hay Tôm) sanh 1928 có chồng sanh 1 con gái rồi bịnh chết.
Thứ 3: Trần Thị Sộp sanh 1930 chồng Võ Văn Mách ở Ấp Chợ
Thứ 5: Trần Văn Bi sanh 1936 đã mất
Thứ 6: Trần Thị Sên (Xên) sanh 1939 có chồng nhưng ly dị, các con ở với mẹ.
Thứ 8: Trần Văn Mông sanh 1946, học hành ở Sài Gòn, lớn lên làm cảnh sát, có vợ con hiện đã xuất cảnh.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét